Phần mộ của quan Thượng Thư Nguyễn Xuân Thục tọa lạc trong khuôn viên đất thổ mộ của họ tộc, thuộc thôn Phước Đa 2 – xã Ninh Đa – huyện Ninh Hòa – tỉnh Khánh Hòa.
Theo ông Nguyễn Xuân Hổ cho biết, ngôi mộ là của cụ Nguyễn Xuân Thục lúc sinh thời đã từng làm quan dưới triều nhà Nguyễn. Hiện tại, gia đình ông Hổ vẫn còn lưu giữ được 23 chiếu chỉ dưới các triều vua Gia Long và Minh Mệnh, trong đó dưới triều vua Gia Long là 05 chiếu chỉ và dưới triều vua Minh Mệnh là 18 chiếu chỉ. Thông qua bản dịch của 23 chiếu chỉ này cùng với những ghi chép trong các cuốn sử như: “Đại Nam liệt truyện”, “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn, ta có thể bước đầu khái quát được những nét cơ bản về nhân vật lịch sử Nguyễn Xuân Thục như sau:
Ông sinh năm Nhâm Ngọ (1762), mất năm Minh Mệnh thứ 08 (1827), thọ 65 tuổi, người huyện Quảng Phúc, tỉnh Khánh Hòa, cha là Nguyễn Xuân Tịnh/Tĩnh làm quan đến chức Tiền Khâm sai Cai đội. Lúc đầu, Nguyễn Xuân Thục lệ thuộc Hậu quân, làm thuộc hạ của Võ Tánh.
Năm Bính Thìn (1796), ông được thăng làm Tham luận vệ Tiền kích.
Năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Xuân Thục theo đi đánh trận, đã chiếm được thành Quy Nhơn (Nguyễn Ánh cho đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định từ đó), sau đó ở lại theo phó tướng Nguyễn Văn Biện giữ Sa Lung. Tướng Trần Quang Diệu của quân Tây Sơn tiến đánh, quân Nguyễn Ánh phải rút về thành Bình Định. Lúc này, giữ thành Bình Định là Võ Tánh và Ngô Tùng Chu. Năm Canh Thân (1800), quân của Tây Sơn do tướng Trần Quang Diệu tiến đánh thành Bình Định. Đến năm Tân Dậu (1801), sau một năm bị vây hãm, tướng Võ Tánh và Ngô Tùng Chu thế cùng phải tự tử. Thời điểm này, Nguyễn Xuân Thục bị quân Tây Sơn bắt được và cho sung vào quân ngũ, đóng ở Mân Khê. Về sau, nhân lúc sơ hở, ông bỏ trốn sang quân Lê Văn Duyệt rồi sau đó được triệu về.
Dưới triều vua Gia Long thì các địa phương từ Nam tới Bắc chia ra làm 23 trấn và 04 doanh. Đất kinh kỳ thống lĩnh 04 doanh. Từ Thanh Hóa ngoại – nay là Ninh Bình – trở ra thì gọi là Bắc Thành (gồm 11 trấn). Ở quãng giữa nước thì đặt Thanh Hóa trấn (gồm 07 trấn). Từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định Thành (thống lĩnh 05 trấn). Ở Bắc Thành và Gia Định Thành đều đặt chức Tổng Trấn và phó Tổng Trấn để coi mọi việc. Ở các trấn thì đặt quan Lưu Trấn (hay là quan Trấn Thủ), có quan Cai Bạ và quan Ký Lục giúp việc cai trị trong trấn. Trấn lại chia ra: Phủ, huyện, châu; đặt chức Tri phủ, Tri huyện, Tri châu để coi việc cai trị.
Gia Long năm thứ 02 (1804), ông được thăng làm Ký Lục Trấn Biên. Sau đó chuyển qua làm Cai Bạ Vĩnh Thanh (tức là Vĩnh Long và An Giang ngày nay) thuộc Gia Định Thành.
Cũng dưới triều Nguyễn thì mọi việc đều do Lục Bộ chủ trương thực hiện. Lục Bộ này bao gồm: bộ Lại, bộ Hộ, bộ Lễ, bộ Binh, bộ Hình, bộ Công. Lãnh đạo mỗi bộ là 05 vị: đứng đầu là 01 Thượng thư, 02 Tham tri (Tả và Hữu), 02 Thị lang (Tả và Hữu) cùng các thuộc viên như là: lang trung, viên ngoại lang, chủ sự và bát cửu phẩm thơ lại…
Gia Long năm thứ 12 (1813), Nguyễn Xuân Thục coi việc vận tải về kinh rồi được thăng làm Hữu Tham Tri bộ Hình (coi việc hình danh pháp luật, tra nghĩ dâng tấu, duyệt lại những tội nặng án ngờ, xét kỹ những từ giam ngục cấm…). Sau đó lại chuyển sang làm Hữu Tham Tri bộ Binh (coi việc thuyên bổ võ chức, giảng duyệt quân lính, sai khiến quân đi thú hoặc đi đánh dẹp, kén chọn binh đinh, xét người có công người có lỗi về việc binh…). Đây là chức quan chỉ đứng sau Thượng Thư, có hàm Tòng nhị phẩm. Căn cứ trên đạo chiếu chỉ ngày 02 tháng 8 Gia Long năm thứ 13 (1814) thì khi đó ông đã được phong tước “Thục Thiện hầu” (trong Ngũ tước của triều Nguyễn thì từ cao xuống thấp lần lượt là: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam). Chúng ta có thể đoán định rằng: Nguyễn Xuân Thục được phong tước “hầu” cũng trong năm Gia Long thứ 12 (1813) khi mà ông được giao đảm đương những vị trí khá quan trọng trong bộ Hình và bộ Binh.
Gia Long năm thứ 13 (1814), ông được vua giao cho làm Hiệp Trấn Thanh Hóa (tức trấn Thanh Hoa – do tránh tên “húy” của Tả Thiên Nhơn Hoàng Hậu là Hồ Thị Hoa – Hoàng hậu của vua Minh Mệnh, mẹ vua Thiệu Trị).
Gia Long năm thứ 15 (1816), khi ông đang làm Hiệp Trấn Thanh Hóa thì có tang cha nên phải về quê chịu tang. Gia Long năm thứ 16 (1817), sau khi mãn tang cha, ông lại quay trở lại trấn Thanh Hóa làm Hiệp Trấn.
Chiếu ngày 14 tháng 10 Gia Long năm thứ 16 (1817) cho biết: Nguyễn Xuân Thục trong thời gian làm Cai Bạ ở Vĩnh Thanh “có vi phạm phép công” nên “án xét hạ bậc để cảnh cáo” và ông bị giáng cấp “chuẩn ban cho làm Thiêm Sự bộ Binh”. Tuy nhiên, chỉ 09 ngày sau, trong Chiếu đề ngày 23 tháng 10 Gia Long năm thứ 16 (1817), vua Gia Long đã “chuẩn y ban cho hồi phục làm Hữu Tham Tri Thục Thiện hầu tham gia xử lý các công vụ trong bộ Binh”. Từ đây, ta có thể nhận thấy là vua Gia Long dành cho ông một sự ưu ái khá đặc biệt.
Sau khi vua Gia Long qua đời, ngay khi vừa mới nên ngôi, vua Minh Mệnh trong Chiếu đề ngày 16 tháng 02 Minh Mệnh nguyên niên (1820) đã cho triệu ông về Kinh “chuẩn cho lưu lại tại Kinh cùng với Hữu Tham Tri bộ Binh Quang Huy hầu Nguyễn Tăng Địch làm các công vụ trong Bộ…”. Việc đưa Nguyễn Xuân Thục về Kinh chứng tỏ sự tin tưởng của vua Minh Mệnh vào tài năng cũng như đức độ của Nguyễn Xuân Thục, nhất là khi vua Minh Mệnh vừa mới lên ngôi, rất cần những người tâm phúc để giao phó những công việc quan trọng. Điều này càng thể hiện rõ hơn qua việc vua Minh Mệnh đã giao cho ông làm Phó sứ Sơn Lăng lo việc xây cất lăng Thiên Thọ – nơi chôn cất vua Gia Long. Và Nguyễn Xuân Thục đã không phụ lại sự ủy thác của vua Minh Mệnh. Trong bản Chiếu đề ngày 22 tháng 02 Minh Mệnh nguyên niên (1820), vua đã nhận xét rằng: “công việc Lăng hoàn thành mỹ mãn vô cùng, kính cẩn, chính xác xứng với lòng hiếu thảo tột cùng của trẫm”.
Sự tin yêu của vua Minh Mệnh dành cho ông ngày càng tăng. Trong Chiếu đề ngày 30 tháng 4 Minh Mệnh nguyên niên (1820), nhà vua đã giao cho Nguyễn Xuân Thục đến Thành Gia Định“đặc chuẩn thuyên chuyển làm Hữu Tham Tri bộ Hộ quản lý sự vụ tại cơ quan bộ Hộ (Hộ tào), kiêm lý cơ quan bộ Công (Công tào) làm tất cả sự vụ quan trọng các cơ quan đó”. Như vậy là công việc của Nguyễn Xuân Thục trong bộ Hộ là coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc chuyển thông, kho tàng chứa chất, hóa vật đắt rẻ… Còn công việc của ông trong bộ Công là: coi việc làm cung điện, dinh thự, xây thành, đào hào, tu tạo tàu bè, đặt làm kiểu mẫu, thuê thợ thuyền, mua vật liệu… Đồng thời vua Minh Mệnh còn dặn dò ông “tham gia cùng quan Khâm sai Tổng Trấn giải quyết mọi việc cung kính cần mẫn cho xứng với sự ủy nhiệm hết lòng”. Lúc này, Tổng Trấn thành Gia Định là Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt là người cương trực và trung thành, nhiều lần đã can ngăn vua, làm trái ý vua… Nhưng vì ông là khai quốc công thần và đã được vua Gia Long trao cho “Thượng phương kiếm”, được gọi là “cố mạng lương thần” là bề tôi lương thiện được vua tin cậy trao phó trách nhiệm phò tân quân (Minh Mạng); ngoài ra, Lê Văn Duyệt còn có công lao dẹp giặc, an dân, mở mang đất đai, cường thịnh nhất là vùng Đồng Nai-Cửu Long (tức Gia Định, Nam Kỳ lục tỉnh)… nên dù không vừa lòng, vua Minh Mạng cũng phải đối xử với ông cho đúng với công lao khi ông còn sống. Việc đưa Nguyễn Xuân Thục vào thành Gia Định ở một khía cạnh nào đó có thể xem như là việc giám sát các hoạt động của Lê Văn Duyệt. Vua Minh Mệnh trong một tờ Chiếu sau đó (ngày 19 tháng 02 Minh Mệnh năm thứ 02), đã một lần nữa căn dặn Nguyễn Xuân Thục “Do công việc thuế khóa đất nước to lớn. Nay đặc chuẩn Thục Thiện hầu chuyên trách các công việc quan trọng tại Hộ tào thành Gia Định và tham gia biện lý cùng quan Khâm sai Tổng trấn. Phải nên thận trọng chừng mực trong những việc mẫn cảm tế nhị để xứng đáng việc hết lòng ủy nhiệm”.
Ngày 07 tháng 8 Minh Mệnh năm thứ 02 (1821), Nguyễn Xuân Thục được giao “đặc phái làm Đề Điệu Trường thi thành Gia Định, lãnh ấn trường, phàm công việc trường thi phải tuân theo như trong sắc chỉ, hiệp cùng Giám thí viên (viên chức coi thi-VNH) thừa hành lễ lớn tuyển chọn nhân tài này. Nên theo công tuyển chọn lấy bỏ cho thích đáng, xứng với sự ủy thác”. Những người đỗ thi Hương đạt học vị Cử nhân và Tú tài (xưa gọi là Hương cống, Sinh đồ ). Số thí sinh kể có hàng nghìn, nhưng số lấy đỗ chỉ có 72 Tú tài và 32 Cử nhân. Những người đỗ Cử nhân sẽ được bổ dụng ra làm quan, đầu tiên có thể được làm việc ở các cơ quan cấp tỉnh, cấp trung ương, hoặc được đi làm quan các huyện, sau dần dần mới lên các chức vụ cao hơn.
Trong 02 bản Chiếu vào cùng ngày 21 tháng 7 Minh Mệnh năm thứ 03 (1822), vua Minh Mệnh đã truy tặng cho cả cha và mẹ của Nguyễn Xuân Thục (lúc này đều đã mất). Mẹ ông là bà Trần Thị Đường được vua Minh Mệnh dùng những mỹ từ sau: “đến nay việc hiếu đã để lại ấn tượng sâu sắc và tràn trề ơn đức… nay tặng ngươi là Thục nhân… danh không mất mà còn lưu dẫn ánh sáng chói lọi làm tiêu tan u buồn”. “Thục nhân” là danh hiệu phong cho mệnh phụ hàm Tam phẩm (Nhất phẩm: Phu nhân – Nhị phẩm: Đoan nhân – Tam phẩm: Thục nhân – Tứ phẩm: Cung nhân – Ngũ phẩm: Nhụ nhân,v.v…). Còn cha ông là Nguyễn Xuân Tịnh thì được vua Minh Mệnh dùng các mỹ từ sau: “Tính ông ngay thẳng đoan trang, hào hoa đôn hậu, đáng phong là nhà thiện đạo (đạo đức tốt đẹp-VNH), nhà không giàu mà rộng rãi theo nghiệp kiếm cung, dạy con theo việc nghĩa, chinh phạt lớn theo xe Tứ mã…Nay đặc biệt tặng ngươi là Trung nghị đại phu Tư trị thiếu khanh Hương Nguyên hầu…”.
Tài năng và đức độ của Nguyễn Xuân Thục đã được vua Minh Mệnh ghi nhận thông qua Chiếu đề ngày 28 tháng 4 Minh Mệnh năm thứ 06 (1825): “Lệnh cho Hữu Tham Tri Bộ Hộ chuyên lĩnh chức Hộ tào Công tào sự vụ thành Gia Định Nguyễn Xuân Thục: trước nay thông thạo chính thể tại sở đều biết, trước triều đình nhận chức Thượng Thư bộ Binh. Thục Thiện hầu nhận lãnh ấn cơ quan Bộ quản lý các công vụ trong Bộ. Phải phát huy tài năng hết mực, trung thành cẩn thận đến cùng để xứng với trách nhiệm ủy thác”. Thượng Thư bộ Binh (tương đương với Bộ trưởng ngày nay) là một chức vụ rất quan trọng bởi vì đây là chức vụ nắm toàn bộ quân đội (gồm bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh và pháo thủ binh) nên nếu không phải là người tin cẩn thì không bao giờ được vua giao. Bởi không riêng gì vua Minh Mệnh mà tất cả các triều vua phong kiến Việt Nam đều rất e ngại nếu không kiểm soát được quân đội. Điều này càng chứng tỏ ngoài tài năng và đức độ, Nguyễn Xuân Thục còn là người rất tin cẩn của vua Minh Mệnh.
Ngày 17 tháng 6 Minh Mệnh năm thứ 06 (1825), Nguyễn Xuân Thục một lần nữa lại được sung làm Đề Điệu Trường thi Thừa Thiên “Nay đến kỳ thi Hương, đặc phái sung chức Đề Điệu Trường Thừa Thiên giữ ấn trường…Phải cùng với Giám thí viên làm tốt lần lễ lớn chọn hiền tài này. Nên xem xét việc lấy bỏ cho thỏa đáng, cho xứng với sự bổ nhiệm”.
Trong Chiếu đề ngày 18 tháng 7 Minh Mệnh năm thứ 06 (1825), nhà vua đã chuyển Nguyễn Xuân Thục từ Thượng Thư bộ Binh qua làm Thượng Thư bộ Lễ “Thượng Thư bộ Binh Nguyễn Xuân Thục lão thành văn chương học vấn, từ lâu giúp việc triều chính, nổi tiếng tại công sở. Nay điều bổ làm Thượng Thư bộ Lễ. Thục Thiện hầu giữ ấn tín cơ quan Bộ, quản lý mọi công vụ trong Bộ. Phải nên phát huy tài trí, hết lòng trung thành và rất thận trọng, xứng đáng với trọng trách được giao”.
Trong kỳ thi Hương năm Ất Dậu (1825), ông được giao làm Đề Điệu Trường thi Thừa Thiên. Nhưng tại kỳ thi này, thí sinh Nguyễn Thiên Điều không làm được bài liền cầm đầu một nhóm sĩ tử ở vi Tả reo hò ầm ĩ. Ba vi Hữu, Giáp, Ất cũng náo động. Các quan coi thi phải điều lính đến mới dẹp yên. Việc được tâu lên vua Minh Mệnh, Nguyễn Thiên Điều thú tội, bị khép vào tội “giảo giam hậu” (giam chờ thắt cổ), những sĩ tử khác đều được tha. Sau đó, Thiên Điều được giảm tội, chỉ bị sung vào lính. Các quan trường thi và các quan địa phương vì tâu báo chậm sự việc cũng bị phạt; các đốc học, giáo thụ, huấn đạo… cũng bị giáng chức. Về phần Nguyễn Xuân Thục, ông cũng liên đới bị trách nhiệm. Trong Chiếu đề ngày 29 tháng 8 Minh Mệnh năm thứ 06 (1825) ghi rằng: “Vào ngày mùng 01 tháng 7 năm nay, do việc thí sinh làm reo náo động khu thi đã không được tâu ngay lên kịp thời, qua Bộ Lễ nghị xử nên phạt trừ lương trong 06 tháng” song lại cho ông trừ vào sổ Ký Lục (sổ ghi chép công trạng) một lần “lấy một lần để xóa vụ án này, bảy lần còn lại theo lệ cấp trả lại đủ”.
Sự cố tại Trường thi Thừa Thiên không làm ảnh hưởng đến sự tin tưởng của vua Minh Mệnh dành cho ông, mà trái lại trong Chiếu đề ngày 25 tháng 02 Minh Mệnh năm thứ 07 (1826), nhà vua đã phong cho ông làm Chánh Chủ khảo kỳ thi Hội “Khanh học hành uyên bác thành đạt, tại sở đều rõ. Nay đến kỳ thi Hội, đặc chuẩn sung chức Chánh Chủ khảo kỳ thi, giữ ấn trường thi…lần này là lễ lớn chọn hiền tài, phải hết lòng vì việc công, xem xét định liệu lấy bỏ cho thỏa đáng nhằm chọn được thực tài đúng theo tâm thành ủy nhiệm”. Kỳ thi Hội là kỳ thi ở cấp Nhà nước. Số lượng thi Hội cũng rất đông, tất cả những người đã đỗ Cử nhân đều được dự thi. Có người đã ra làm quan cũng được thi để giành học vị cao và được bổ dụng cao hơn.Và ông đã không phụ lại sự ủy thác của vua Minh Mệnh, kỳ thi diễn ra hoàn toàn nghiêm túc, đúng luật và tuyển chọn được nhiều nhân tài cho đất nước.
Minh Mệnh năm thứ 07 (1826), vua Minh Mệnh xuất giá rời khỏi Kinh sư đi tuần hành Quảng Bình và Quảng Trị (khám nghiệm công trình sông Vĩnh Định) đã giao cho Nguyễn Xuân Thục cùng với đại thần Tôn Thất Bính ở lại giữ kinh thành. Trong Chiếu đề ngày 02 tháng 4, nhà vua đã giao cho Nguyễn Xuân Thục “đặc phái khanh hiệp cùng Tôn Thất Bính đại thần của Hoàng tử Miên Định (em trai vua Thiệu Trị sau này-VNH) lưu trú tại kinh, ban cho ấn triện lưu kinh. Và phái thêm Hữu Tham Tri Bộ Hình Huỳnh Kim Xáng, dinh thự Cai Bạ Đặng Văn Hòa cai quản công việc Bộ Binh, đều lấy chức vụ gốc làm hộ ấn viên (người bảo vệ ấn tín-VNH). Phàm mọi việc cùng bàn bạc”. Đặc biệt là vua Minh Mệnh đã tin tưởng giao cho ông “các chức quan lớn nhỏ không hộ giá cho phép các khanh và Hoàng tử tại Kinh điều chuyển…phần khanh phải cố gắng cẩn thận để xứng đáng với sự ủy thác”. Phải là người tâm phúc thì vua Minh Mệnh mới để lại kinh thành cùng cả ấn tín giao cho trông coi, hơn nữa lại còn giao cho quyền điều chuyển các quan lại không đi hộ giá ở trong Kinh. Đây thực sự là một vinh dự mà không phải đại thần nào trong triều đình cũng có được.
Minh Mệnh năm thứ 08 (1827), sức khỏe của ông giảm sút. Ông dâng sớ xin nghỉ việc về quê chữa bệnh. Vua Minh Mệnh dụ bộ Lại rằng: “Nguyễn Xuân Thục trải qua nhiều năm chăm chỉ trong ngoài, đạt đến thành thạo. Trẫm vui vì Bộ của khanh chu toàn đem lại lợi ích chung, đến năm nay sức lực yếu dần lại thêm bệnh phong, nói năng thất thường, dâng sớ xin về quê điều trị…chuẩn y cho giải nhiệm trở về quê quán chữa bệnh không kể thời gian bao lâu, đợi cho đến lúc khỏi bệnh có thể về Kinh để xin ý kiến. Lại gia ân thưởng tiền ba trăm quan để mua thuốc men, chứng tỏ ta hết lòng đối với cựu thần” (Chiếu đề ngày 13 tháng 3 ). Nguyễn Xuân Thục về đến quê được vài tháng thì qua đời, hưởng thọ 65 tuổi. Bản Chiếu đề ngày 02 tháng 06 Minh Mệnh năm thứ 08 ghi rằng: “Nguyễn Xuân Thục từ kinh về quê quán, đột nhiên từ trần. Tưởng nhớ công lao trước thật đau xót. Ngoài khoản tuất cấp theo thường lệ, nay gia ân thưởng tiền ba trăm quan, gấm tiễn ba cây” đồng thời cấp cho một người phu coi mộ.
Triều vua Tự Đức năm thứ 12 (1859), Nguyễn Xuân Thục được liệt thờ ở đền Hiền Lương.
Ngôi mộ của Thượng Thư Nguyễn Xuân Thục có diện tích 57,75m2,quay hướng Đông. Ngôi mộ của ông có bố cục như sau:
Bao quanh ngôi mộ chính là một vòng tường thành uốn quanh theo hướng ngôi mộ quay đầu ra. Tường thành này không khép kín mà chỉ chạy qua đầu ngôi mộ theo hai hướng một chút rồi dừng lại. Kết thúc hai đầu tường thành là hai trụ nhỏ trên đó có khắc những dòng chữ Hán nhưng đã bị mờ. Phía trước hướng đầu ngôi mộ là một Án Phong. Trên Án Phong có vẽ hình trang trí nhưng đã bị vỡ mất nhiều mảng, có thể nghĩ đây là trang trí hoa văn hình hoa dây. Chính giữa vòng tường thành là ngôi mộ của Thượng Thư Nguyễn Xuân Thục. Ngôi mộ này có hình dáng một con voi quỳ với những đường nét hoa văn uốn lượn theo thân rất mỹ thuật. Mặc dù hiện nay đã bị hoang phế nhiều nhưng dựa vào những đường nét hoa văn còn sót lại ở tường thành, Án phong, các đầu trụ ở tường thành và ngôi mộ chính ta có thể thấy rằng: trước kia, đây là một kiến trúc lăng mộ hoàn chỉnh và mang đậm phong cách mỹ thuật triều Nguyễn.
Cách ngôi mộ Thượng Thư Nguyễn Xuân Thục khoảng 100m về phía Đông là ngôi mộ của thân mẫu ông – Thục nhân Trần Thị Đường. Ngôi mộ này có quy mô nhỏ và hiện đã bị cỏ cây che lấp phần lớn.
Hiện nay, gia đình ông Nguyễn Hổ vẫn dành riêng một gian nhà Từ đường làm nơi phụng thờ các vị tiền nhân, thể hiện đạo lý cao đẹp của người Việt Nam là uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
Thượng Thư Nguyễn Xuân Thục mất vào ngày 26/5 Âm lịch. Hàng năm cứ đến ngày này là gia đình ông Nguyễn Xuân Hổ và họ tộc tổ chức lễ cúng giỗ để tưởng nhớ đến bậc tiền nhân đã có công với đất nước trong buổi đầu thống nhất giang sơn.
Ngày 19/3/2008, UBND tỉnh Khánh Hòa ra Quyết định số 703/QĐ-UBND xếp hạng Phần mộ – Từ đường Thượng thư Nguyễn Xuân Thục là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Vũ Ngọc Hải / Nguồn