1. HÒ CHÀO MỜI TRẦU VÀ GIAO DUYÊN
Chặng đầu của một cuộc hò giã gạo là những bài hò chào với nội dung thăm hỏi, tìm hiểu đối phương, rào đón và dò dẫm tình ý, tài nghệ. Lời hò khiêm nhường, từ tốn và lịch sự. Tiết tấu khúc chiết, gãy gọn với tốc độ dồn dập, sôi động theo nhịp chày hai (hai người giã) hoặc chày ba (ba người giã).
Bài hò này giã nhịp chày ba, hai nàng và một chàng.
– Cô gái 1:
Hò ơ hò…
Tôi xin chào lớn trước nhỏ sau
Chào người bạn mới may đâu tương phùng
Đường xa cách trở mấy sông
Mến tình nặng nghĩa dốc lòng đến đây
Dễ đâu gặp được dịp này
Tôi xin mời miếng trầu cay gọi là
Rằng nghe chàng giỏi hò ca
Đêm nay mong đặng nghe qua giọng hò.
– Cô gái 2:
Xin chào anh bạn tổng bên
Nhịp chày mình sẽ làm quen trong câu hò
Trước tiên thăm hỏi nơi nhà
Hai thân tóc hạc da gà (1) có khỏe không?
Băng sương chẳng quản đường trường
Mới hay tri kỷ tìm đường tri âm.
– Chàng trai:
Vừa nghe thục nữ ướm lời
Lòng mừng gặp gỡ đặng người ước mong
Trước xin chào các bà các ông
Cùng cô chú bác sau chào chung bạn mình
Dẫu rằng đường sá gập ghềnh
Bởi chưng nặng nghĩa trọng tình mà đi
Nhịp chày qua (2) đáp bạn nữ nhi
Mẹ già đã yếu cha thì tuổi cao
Khi đi cha mẹ dạy mấy điều
Gặp người hiền đức ghi vào giữa tâm
Nay biết ai là bạn tri âm
Nhờ nàng chỉ giúp mối tình thâm sau này.
– Cô gái 1:
Biết chàng lòng vốn đa mang
Thiếp xin làm mối hai nàng ở bên sông
Sanh đôi cô chị tên Tam tòng(3)
Cô em tên Tứ dức(4) má hồng còn xuân
Qua sông chàng hỏi nhà ông Ngũ luân(5)
Mai này chàng đến một lần thử sao.
– Cô gái 2:
Hai cô rất kén bạn đời
Kén nhân kén ngãi kén người thủy chung
Không kén ruộng đất vàng ròng
Nếu chàng thấy đủ đạo luân thường(6) ghé chơi
Hai cô chàng chọn một người
Chị em thiếp thật dạ tỏ lời mối manh.
– Chàng trai:
Giọng hò làm mối trắng trong
Chắc cô Tứ đức, Tam tòng cũng gần đây
Luân thường nhà qua có đầy
Nhắn hai cô qua sẽ chọn ngày rào thưa.
– Cô gái 1:
Sao chàng lòng quá đa đoan
Chị em rào hết thì nghĩa nhơn ở chỗ nào
Hãy nên tính lại xem sao
Nếu không chàng sẽ khó rào đặng ai
– Chàng trai:
Qua đâu bẻ ách lộn nài (7)
Chị ra phần chị em thời phận em
Chỉ e giống quá dễ lầm
Luân thường có sẵn đâu dám vượt tầm lễ nghi.
CHÚ THÍCH:
(1) Tóc hạc da gà: Người già tóc trắng như lông hạc, da dùn như da gà.
(2) Qua: Tôi
(3) Tam Tòng: 3 điều phải theo của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, đó là: khi còn ở nhà phải theo cha, khi đi lấy chồng phải theo chồng, khi chồng chết thì phải theo con trai.
(4) Tứ Đức: 4 đức hạnh tốt của người phụ nư, đó là: giữ mình trinh tiết, ăn nói đàng hoàng, dáng điệu dịu dàng, chăm chỉ khéo léo.
(5) & (6): Luân thường: gồm Ngũ luân (đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo bằng hữu, đạo anh em) và Ngũ thường (Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín).
(7) Bẻ ách lộn nài: Con trâu đi bên thá (bên trái) vượt cái ách qua bên dí(bên phải), ngược lại con trâu đi bên dí lộn dây nài (dây cHòang cổ) sang bên thá, ám chỉ hạng người tráo trở, gian dối.
2. HÒ KỂ TRUYỆN TÍCH NHÂN NGHĨA
Xưa, những đêm hò giã gạo đối đáp truyện tích nhân nghĩa rất được bà con nông thôn Ninh Hòa ưa thích, bởi ý nghĩa từng câu từng đoạn thường đậm nét đạo lý cương thường.
Bài dưới đây do hai chàng trai hò đối đáp:
– Chàng trai 1 hò trước:
Hò ơ hò…
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ hà nhân bất thức quân(1)
May sao gặp bạn tình thân
Ta cùng học hỏi nghĩa nhân mới là
Nhớ tích xưa:
Thương thay cho kẻ quạt mồ(2)
Ghét thay cho kẻ cầm vồ tháo săng(3)
Chuyện đời lấy đó làm răn
Tôi thưa anh bạn đạo hằng ở đâu?
– Chàng trai 2 đáp:
Hò hơ hò…
Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm
Bất thị thi nhân mạc hiến thi(4)
Cảm ơn người bạn tương tri
Tôi biết chi nói nấy đỡ thì vài câu
Đạo hằng ở tại trên đầu
Thân gầy cõng mẹ phiêu du tìm chồng
Lóc thịt mình dâng mẹ no lòng(5)
Quỷ thần cảm động mà không hại nàng
Ai kia kết nghĩa kim bằng
Bởi ganh tài đức chặt chân bạn hiền(6)
Nọ người lòng dạ bất nhân
Hỏi bạn nghĩa chữ ngũ luân là thế nào?
– Chàng trai 1 đáp:
Ngũ luân nghĩa thật cao sâu
Quân thần nghĩa trọng dám đâu sai lời
Phụ tử tình nặng chớ phai
Phu thê tấm cám trọn đời phải thủy chung
Huynh thì hữu đệ phải cung
Giữ tình cốt nhục chứ không nghe xằng
Chữ tín đạo của kim bằng
Thương chàng Tôn Tẫn giận thằng Bàng Quyên
Dưới trăng tôi nghe tiếng khảy đờn
Tiếng đờn bằng hữu bạn còn nhớ ai?
– Chàng trai 2 đáp:
Tiếng đờn tôi nhớ ông Bá Nha(7)
Nghe Tử Kỳ khảy ông biết là nước xuôi
Ông Bá Nha khi đã chết rồi
Tử Kỳ buồn bã suốt đời đờn treo
Ai người kết nghĩa vườn đào(8)
Nhờ bạn kể lại trước sau tỏ tường?
– Chàng trai 1 đáp:
Tích xưa nghe chuyện ba ông
Ông Lưu bụng bự Quan Công râu dài
Ông Trương mắt ốc gan chì
Ba ông thề nguyện kết thì tử sanh
Trời cho thề ấy được thành
Nghĩa trung sắt đá sử xanh không mờ
Còn ai là đứa vô nghì
Cướp công của bạn nhận giết thì chằng tinh?
– Chàng trai 2:
Thương thay cho chú Thạch Sanh(9)
Bị thằng họ Lý bạc tình anh em
Trời cao báo ứng không lầm
Ác giả thì bị họa thâm đó bạn vàng
Ai kia chuộng quý tham sang
Nhẫn tâm giết vợ để mang ấn hầu?
Nghe bạn kinh sử thuộc lầu
Giảng cho tích ấy rõ câu nhân tình.
– Chàng trai 1:
Chuyện xưa Ngô Khởi (10) ác tâm
Bất lương giết vợ để làm nguyên nhung
Nhưng trời đâu có thứ dung
Về sau quả báo vận cùng bị xé thây
Bạn ơi! Tôi hỏi chuyên này
Có bà Nguyệt Kiểu cứu ai đường cùng?
– Chàng trai 2 đáp:
Tôi giận lũ Tạ Thiên Lăng(11)
Bất trung soán đoạt ngai vàng Tề Vương
Lòng bà Nguyệt Kiểu như gương
Cứu ngay ấu chúa chạy bươn ra Phàn Thành
Cảm thương Khương Linh Tá liều mình
Quân thần trọn đạo tử sanh không màng
Đêm khuya dưới ánh trăng vàng
Gạo đã giã trắng mời bạn vàng dừng tay
Ta cùng quấn thuốc nhai trầu cay
Trầu nồng nhân nghĩa thuốc xây luân thường.
CHÚ THÍCH:
(1) Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ/ Thiên hạ hà nhân bất thức quân: 2 câu này xuất xứ từ bài “Biệt Đổng Đại” của Cao Thích đời nhà Đường, nghĩa là: “Đừng buồn nơi đất khách không bạn tri kỷ/ Trong thiên hạ ai người chẳng biết anh”.
(2) Quạt mồ: Trong sách Nam Hoa kinh của Trang Tử có chuyện một lão trọc phú ích kỷ sợ sau khi chết cô vợ trẻ đi lấy chồng khác nên lo dặn trước là phải chôn xác lão nơi đất có mạch nước nhỉ, rồi bắt cô vợ ở luôn bên cạnh quạt cho đến khi nào mộ lão khô mới được đi lấy chồng!
(3) Cầm vồ tháo săng: Cũng trong sách Nam Hoa kinh của Trang Tử có chuyện một người đàn bà ngoại tình, chồng chết chưa kịp chôn đã cầm chày vồ phá quan tài để khoét mắt chồng giao cho tình nhân!
(4) Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm/ Bất thị thi nhân mạc hiến thi: 2 câu này nghĩa là: Gặp người kiếm khách mới nói chuyện kiếm pháp với họ/ Đừng nên nói chuyện thi ca với kẻ không biết làm thơ.
(5) Kể chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn.
(6) Kể chuyện thời Đông Chu liệt quốc có hai người bạn học là Tôn Tẩn, Bàng Quyên. Khi Quyên làm quan ở Ngụy vì ghen tài mà chặt chân Tẩn. Tẩn giả điên được sứ Tề cứu đưa về Tề làm quân sư. Sau Quyên xua binh đánh Hàn, vua Tề sai Tẩn dẫn quân cứu Hàn và lập mưu giết được Quyên tại Mã Lăng.
(7) Kể chuyện Bá Nha, Tử Kỳ. Bá Nha là người giỏi đánh đàn, Chung Tử Kỳ là người sành nghe đàn. Bá Nha muốn bày tỏ tình ý gì qua tiếng đàn, Tử Kỳ đều thấu hiểu cả. Về sau Tử Kỳ chết, Bá Nha treo đàn không đánh nữa vì cho rằng trên đời này không còn ai hiểu nổi tiếng đàn của mình.
(8) Vườn đào: nơi 3 anh em Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi đời Tam Quốc kết nghĩa, thề cùng nhau sống chết để khôi phục nhà Hán.
(9) Kể chuyện Thạch Sanh, Lý Thông.
(10) Ngô Khởi: Nhân vật đời Chiến Quốc, làm quan nước Lỗ. Tề đánh Lỗ, Lỗ muốn dùng Khởi làm tướng nhưng nghi ngờ Khởi có vợ Tề. Khởi bèn giết vợ dâng đầu cho vua Lỗ để được làm tướng soái.
(11) Tạ Thiên Lăng: Tuồng Sơn Hậu kể chuyện anh em Tạ Thiên Lăng cướp ngôi vua Tề. Bà Nguyệt Kiểu là chị Tạ Thiên Lăng lập mưu cứu ấu chúa chạy ra Phàn Thành, Khương Linh Tá đi đoạn hậu cản thương bị Tạ Ôn Đình giết chết. Về sau vua Tề phục nghiệp, anh em nhà họ Tạ (chỉ trừ bà Nguyệt Kiểu) bị tiêu diệt.
3. HÒ ĐỢI CHỜ VÀ OÁN THAN
– Cô gái có chồng đóng lính ở xa:
Hò ơ hò…
Chàng đi lưu thú(1) nay đã ba thu
Trông chàng như thể bà Vọng Phu trông chồng
Thương chàng vượt núi băng sông
Chân mây góc biển lạnh lùng xác xơ
Nhớ chàng thiếp nhờ tả tờ thơ
Gởi ra biên ải biết bao giờ đến nơi
Thơ rằng: vạn lý trùng khơi
Chòi tranh cột nứa thiếp giữ lời sắt son
Cầu cho chàng đặng vuông tròn
Nơi nhà cha mẹ yếu thiếp không sờn đạo dâu
Nắng mưa chẳng ngại dãi dầu
Chữ trinh thiếp để trên đầu khó phai
Vắng chàng gương thiếp chẳng soi
Lược kia kệ lược chẳng đoái Hòai làm chi
Ít hàng lệ thiếp lâm ly
Thơ kia chẳng biết đến thì chàng không.
-Chàng trai đóng vai chinh phu hò đáp:
Ngó ra ngoài hướng đèo Rù Rì(2)
Bỗng nghe Tân Định(3) trạm kỳ trẩy vô(4)
Sáng mơi qua nhận được tờ thơ
Lật ra mới biết là thơ của nàng
Vừa nghe chỉ có mấy hàng
Hai dòng nước mắt rụa ràng nghẹn tâm
Qua nhờ thầy ngũ trưởng(5) tả dùm
Mấy hàng gởi bậu mối tình thâm của chồng
Cha già nhờ bậu cúc cung
Để qua trả nợ núi sông cho đời
Chạnh lòng qua lắm bậu ơi!
Nhớ cha thương vợ đầy vơi giọt sầu
Nguyện cùng trời rộng bể sâu
Trăng thề ngày lưu thú qua giữ câu chung tình
Phần bậu vẹn được tiết trinh
Mười năm mãn thú ta với mình đoàn viên.
– Cô gái:
Nghe thơ chồng gởi buổi chiều
Lòng đầy thương nhớ biết nói sao cho cùng
Thiếp thề giữ vẹn thủy chung
Bà Vọng Phu chờ đặng thiếp một lòng chờ theo
Dù cho bão tố ngặt nghèo
Nuôi cha mẹ yếu thiếp không nao tấc lòng
Chàng yên lòng trả nợ non sông
Trời nuôi ta sẽ tương phùng bên nhau.
CHÚ THÍCH:
(1) Lưu thú: Đi lính đóng quân ở xa.
(2) Rù Rì: tên đèo ở phía bắc Nha Trang
(3) Tân Định: tên cũ của huyện Ninh Hòa ngày nay.
(4) Trạm kỳ trẩy vô: đến kỳ ngựa trạm chuyển công văn giấy tờ vào.
(5) Ngũ trưởng: người chỉ huy một cơ binh 50 lính.
4. HÒ CHẮP NỐI DUYÊN NỢ
Bài hò này là lời thở than tâm sự giữa những người còn son trẻ gặp cảnh lỗi duyên gãy gánh mong kết nối bạn đồng hội đồng thuyền.
– Chàng trai kể lể:
Hò hơ hò…
Thấy người đủ cặp đủ đôi
Còn tôi thì phải lẻ loi một mình
Đêm đêm tôi oán trách ông cao xanh
Duyên đang nồng thắm ông đành phân hai
Khóc cho cánh nhạn rẽ bầy
Con còn con mất lạc loài kêu sương
Kể từ vắng vẻ bóng hường
Nắng mưa cui cút cảm thương phận mình
Chim kêu dưới suối tang tình
Không ai lẻ bạn cho mình kín đôi.
– Cô gái vốn là người cùng cảnh ngộ nửa đường đứt gánh, bao ngày tháng sống lạnh lùng âm thầm bên nong tằm khung cửi, nghe chàng trai than thở, nàng cũng trải lòng chân thật mong kết bạn trăm năm:
Nghe tiếng xe cán bông cút ca cút kít
Chợt nghe tiếng chàng thống thiết nhớ ai
Nợ duyên cũng tại số trời
Người còn kẻ mất không ở đời với nhau
Nhìn lên trời thiếp thương chàng Ngưu
Thương cho Chức Nữ ở hai đầu sông Ngân
Thương xa rồi lại thương gần
Thương thiếp duyên phận cô đơn giống chàng
Bao năm duyên số lỡ làng
Lắm phen gặp cảnh phũ phàng không biết nương ai
Nếu chàng thương cánh bèo trôi
Dây tơ ta nối thành đôi bạn lành
Nói ra nghĩ thẹn cho mình
Trâu đi tìm cột sao cột dành tìm trâu!
Nhưng mà chàng ơi!
Thiếp sợ bao sóng gió dãi dầu.
Một thân bồ liễu không dám đón đầu phong ba.
– Nghe cô gái tâm sự, chàng trai vô cùng cảm động:
Ông Trời bày chuyện bẽ bàng
Bắt qua gãy gánh bắt nàng đứt dây
Hai lần gặp bậu đến nay
Thầm thương nào dám tỏ ngay cái tình
Cũng là duyên nợ ba sinh(1)
Qua mong cùng bậu kết tình phu thê
Gừng cay muối mặn nguyện thề
Qua lo nghi thất(2) bậu yên bề nghi gia(3)
Thương cho bụng bậu thiệt thà
Thương qua bậu chẳng nề hà tỏ phân
Từ nay rõ được nghĩa nhân
Gió to đừng sợ cơ hàn đừng lo.
CHÚ THÍCH:
(1) Nợ ba sinh: Người xưa quan niệm vợ chồng có duyên nợ với nhau đến ba kiếp là tiền sinh, kim sinh và hậu sinh.
(2) Nghi thất: yên bên vợ.
(3) Nghi gia: yên bên chồng.
5. HÒ ĐỐ VÀ HÒ CHƠI CHỮ
Đây là giai đoạn chính, thường diễn ra vào đêm thứ hai hay ba của cuộc hò. Phần hò này là để so tài ứng đối và sự hiểu biết cao thấp. Hễ bên trai đố thì bên gái giải, bên gái gài thì bên trai gỡ. Với những câu đố ngắn và dễ thì người đáp đáp lại liền, còn với những câu đố dài và khó thì hai bên tạm ngưng giã gạo năm mười phút để ăn trầu hút thuốc hội ý tìm lời giải, sau đó tiếp tục. Hầu hết các bài hò đố đều có ý nghĩa dí dỏm hài hước, nhưng không khí tranh tài rất căng thẳng, gay cấn. Chỉ cần đàn anh bên nào thắng được một đêm hát hò “hóc búa” là được nổi tiếng và sẽ có em út đến xin làm “nghiệp môn” (học trò trong nhà thầy).
– Cô gái nhịp chày xướng:
Hò hơ hò…
Nghe chàng đố giỏi nhất làng
Hỏi rằng con cá trê vàng có mấy cái râu
Con gì cái bụng rất sâu
Con gì nối được nhịp cầu ở sông Ngân
Tại sao có mười ba đợt trăng tròn
Đố chàng ai đứng đầu non đợi chồng
Vua gì hóa cuốc ven sông
Đêm đêm nhớ nước não nùng “quốc gia”
Vợ chồng ai cách trở sông Ngân hà
Ai người giúp bạn đăng khoa tiếng đời
Vua nào mê muội tiếng cười
Để cho cơ nghiệp chôn vùi còn chi
Vua nào nếm mật nằm gai
Vua nào nếm phẩn chờ mai phục thù
Ai một bước nhảy khắp bốn châu
Ai ăn một bữa trả ơn sâu nghìn vàng
Nếu chàng đáp được tỏ tường
Trầu này thuốc đó thiếp lẹ làng bưng dâng.
– Trước lời thách thức của cô gái, chàng trai bình tĩnh hò đáp lại:
Dưới trăng nghe bậu hát lần đầu
Lòng này muốn được ăn trầu nàng dâng
Qua đáp bậu nghe cho rõ ràng
Xưa nay con cá trê vàng có bốn cái râu
Con người bụng dạ rất sâu
Quạ đen bắt được nhịp cầu ở sông Ngân
Năm nhuận có mười ba đợt trăng tròn
Bà Vọng phu vò võ đầu non đợi chồng
Vua Thục hóa cuốc ở ven sông
Đêm đêm nhớ nước chạnh lòng “quốc gia”
Chàng Ngưu ả Chức ly biệt bến Ngân hà
Tô Tần giúp bạn vinh hoa một đời
U Vương mê muội tiếng cười
Đông Châu cơ nghiệp tơi bời một khi
Vua Ngô nếm mật nằm gai
Vua Việt nếm phẩn chờ mai phục thù
Ngộ Không một bước nhảy khắp bốn châu
Hoài Âm ăn một bữa trả ơn sâu nghìn vàng
Qua đã đáp được tỏ tường
Tháng sau qua muốn cưới nàng được chăng?
– Trước lời lẽ giải đáp trôi chảy của chàng trai, cô gái tìm cách tránh trớ thêm lần nữa:
Cưới thiếp đâu có dễ dàng
Lần này đáp được rõ ràng thiếp sẽ theo
Hôm qua giờ Mẹo
Thiếp đi chợ Gò Miêu(1)
Rao bán một con mèo
Mèo chưa bán được thiếp đói meo cả lòng
Xách mèo về gặp Bốn Mão ở Quảng Đông
Bác hứa mua cho anh Chấn
Chỉ trong vòng tháng hai
Hết tháng hai sao chẳng thấy ai
Chàng mà đáp được thiếp theo ngay chân chàng.
– Điều hóm hỉnh trong đoạn hò của cô gái là các chữ Mẹo, Miêu, Mão (đều có nghĩa là mèo), quẻ Chấn thuộc về tháng hai. Chàng trai cũng không kém, đối ngay bằng các chữ Tuất, Cầy, Cẩu, Khuyển (đều có nghĩa là chó), quẻ Càn thuộc về tháng chín:
Ở đời phải giữ ngũ thường
Lòng qua không thích trớ tràng đổi thay
Xin bậu hãy nghe đáp đây
Hôm kia giờ Tuất
Qua đến quán Cây Cầy
Đem tiền mua con cẩu choai choai
Mười Dư không bán chó chỉ đổi vài cái trứng non
Thấy người lạ lũ khuyển sủa càn
Hẹn tháng chín gió bấc qua sang bắt về
Lời đáp cũng đã xuôi bề
Thôi thôi ta hãy chung ghe thuận dòng
Bậu ơi! Đừng có trớ lòng vòng
Sắt cầm ta kết thủy chung hảo cầu
Về nhà thưa cha mẹ đuôi đầu
Kiềng đồng qua sắm lễ bỏ trầu nàng đeo
Bậu đừng vội nói đi theo
Để qua bưng kỉnh tiền cheo cho làng.
CHÚ THÍCH:
(1) Chợ Gò Miêu: tên một cái chợ xưa ở tổng Thân Thượng.
6. HÒ NÓI LÁI
Bài hò này theo lối nói lái diễn ngữ:
– Đối:
Mắm nêm ăn với quả cà
Vắng anh Tử Trực(1) đâu mà biết ngon.
– Đáp:
Bụi riềng trồng ở bờ ao
Chú Mộc Tồn(2) quấn quít ngày nào cũng xin.
CHÚ THÍCH:
(1) Tử Trực là con ngay, con ngay là cay ngon, ám chỉ quả ớt.
(2) Mộc Tồn là cây còn, cây còn là con cầy, ám chỉ thịt chó.
Bài hò này theo lối nói lái trực tiếp:
– Cô gái nhịp chày xướng:
Hò ơ hò…
Hát tình hát nghĩa đã qua
Bây giờ hát lái mới biết là hơn thua
Mẹ mua con cá đối lúc trưa
Để trên cối đá sao bây giờ mất tiêu
Chàng chỉ dùm con cá đối ở đâu
Hay mèo tha dấu ngoài rào sau mất rồi!
– Chàng trai đáp lại:
Cá mắm chuyện của nữ nhi
Bậu còn vô ý thì chuyện gì cho nên
Con mèo đuôi cụt nhà bên
Biết mẹ đi mua cá nó leo lên mút đuôi kèo
Mẹ xách con cá đối nó nhìn theo
Thấy để trên cối đá nó khều liền tay
Lần sau nhớ lấy lần này
Thấy mẹ mua cá đem ngay cất liền.
Trong hò nói lái có lối hò lái bí. Hò lái bí chỉ có bài đối mà không có bài đáp lại tương xứng, như bài hò sau đây:
– Cô gái:
Tích xưa Ngô Khởi tài cao
Vợ mừng ngơi khổ thoát bao dãi dầu
Khởi tham danh cao mê công hầu
Lấy dao canh cổ vợ ai nào nhẫn tâm
Nếu chàng kinh sử nhập tâm
Đạo tào khang chàng giảng rõ để làm gương soi.
– Chàng trai đành bó tay trước câu hò đối bí hiểm này và hẹn tháng sau. Một tháng sau cũng không tìm được câu giải, chàng ta “lặn” luôn trong lần giao lưu kế tiếp. Bốn năm tháng trôi qua, tại nơi cũ lại diễn ra cuộc hò đối đáp, chàng trai nghĩ rằng cô gái sẽ không có mặt, hoặc giả nếu có cô ta cũng quên mất. Không ngờ lần tái ngộ này cả hai lại gặp nhau bên cối gạo, cô gái hò nhắc lại món nợ cũ:
Năm ngoái chàng nợ câu hò
Hẹn rằng sẽ trả mà bây giờ cũng không
Hay chàng cùng Ngô Khởi một lòng
Vợ chàng có ngơi khổ hay không hỡi chàng?
– Chàng trai thú thực bó tay, nhưng để vớt vát bèn cải biên vài câu hò mép ở đâu đó để thay vào:
Qua không rành chuyện sử kinh
Bậu hò lái bí qua đành chịu thua
Bây giờ hát chuyện bán mua
Chuyện cày chuyện cấy chuyện dưa chuyện cà
Chuyện rằng:
Có nàng Thị Mãnh ở nơi ta
Tới làng Thạnh Mỹ(1) tìm nhà em trai
Em trai đã xuống Bình Tây
Bầy tinh biết được chận ngay giữa đường
Thôi thôi qua từ giã cô nương
Để mau xuống đó tìm phương giúp người.
– Cô gái chưa chịu, toan bắt bẻ, thì một cô gái khác hóa giải cũng bằng câu hò hiểm hóc:
Cảm thương anh Trí Bá(2) làng xa
Đáp câu trá bí, chị em ta cũng nương lời.
CHÚ THÍCH:
(1) Làng Thạnh Mỹ nay có tên là Thanh Mỹ thuộc xã Ninh Quang huyện Ninh Hòa.
(2) Trí Bá: nhân vật đời Xuân Thu, là người thất bại trong giấc mộng công hầu.
7. HÒ CHỌC GHẸO MỈA MAI
Trong sinh hoạt hò hát giữa các làng với nhau, lúc nào hai bên cũng giữ lễ nghi tình cảm, do đó ít sử dụng những bài hò có nội dung chọc ghẹo, mỉa mai. Tuy nhiên đôi lúc cũng có vài cặp trai gái quá quen mặt nên khích bác châm chọc nhau, thảng hoặc có cô cậu do bản tánh xấu nên bị bạn hò chế giễu.
– Một chàng trai mắt bét ghẹo cô gái cổ cò:
Hò hơ hò…
Bậu kia ngồi ngóng cổ cò
Đến đây không hát không hò không khoan
Hay là cả tấm tình son
Bị xông bùa ngải nên quên hát hò.
– Chàng trai đơn phương giã gạo khiêu chiến. Cô gái kia bất bình vào cầm chày giã gạo nghênh chiến ngay:
Ai kia có mắt như mờ
Hay mắt bị bét ghèn lòa mắt chăng!
Phận mình đầu tóc rối nhăng
Lại còn xoi bói cổ bằng cổ cao…
(Mất một đoạn)
… Tại sao mà gọi trăng già trăng non
Tại sao trăng khuyết liền tròn
Tại sao đá cứng bị mòn bởi chân
Ít câu tôi hò hát có chừng
Hỏi người mắt bét rõ ràng nghe chưa.
– Không ngờ cô gái tấn công mình, chàng trai phản kích lại:
Mắt qua hơi bét, cô bậu ghét quá rồi
Trời làm qua phải chịu thôi
Mà sao bậu dám nặng lời mỉa khinh
Bảy mươi chưa gọi rằng lành
Chê người rồi sẽ lượt mình người chê…
(Mất một đoạn)
… Trăng già vì bởi trăng qua hạ tuần
Núi non tiếng lóng của cổ nhơn
Núi non đâu phải là con núi già
Nguyệt thực bậu biết chăng là
Trăng tròn vội khuyết khuyết ra liền tròn
Qua nghe chân cứng đá mềm
Chưa nghe chân cứng đá mòn bậu ơi!
Tiện đây qua tỏ vài lời
Con gái cú tắng(1) chắc ế đời xuân xanh.
– Ngày xưa con gái bị rủa ế chồng là nặng lắm, cô gái bực tức đáp ngay:
Ế chồng tôi chẳng có lo
Sợ ai ế vợ nằm co một mình
Cổ cò tôi cũng chịu đành
Ai kia mắt bét không dám tỏ tình với ai.
– Không ngờ cuộc hát đêm nay căng thẳng đến thế, một người khác vào giã chày ba can gián:
Đêm nay hát nghĩa hát tình
Sao ai hát mỉa hát kình với ai
Dĩ hòa vi quý ai ơi!
Nhịn nhau một tiếng láng lơi nghĩa tình
Nhịn người người sẽ nhịn mình
Gặp nhau xỉa xói sao đành cùng nhau
Tôi xin can mời thuốc mời trầu
Rồi cùng hò tiếp những câu dịu dàng.
CHÚ THÍCH:
(1) Cú tắng: Hay gây sự.
8. HÒ CHIA TAY THAN THỞ
Một cuộc hò đối đáp kéo dài đến ba bốn đêm liền, trai gái tha hồ gửi gắm lòng mình qua câu hò hơ dưới ánh trăng thanh. Từng đôi trai gái thay nhau hát những câu hò nhân nghĩa chứa đựng ý tình hẹn biển thề non, từng nhịp chày vang lên đều đặn như nối kết nhịp đập của những con tim vừa chớm yêu đương. Không biết bài bản họ học từ đâu, thuộc lúc nào, mà đối đáp thao thao như dòng nước chảy, tình cảm càng lúc càng trào dâng lai láng. Nhưng cuộc vui nào rồi cũng phải tàn. Chặng cuối của cuộc hò giã gạo là hò chia tay, hò từ giã, những câu hò chan chứa bao nỗi cảm phục, luyến tiếc, vui buồn, thương nhớ, vấn vương…
Đêm nay là đêm cuối. Tiếng gà khuya xao xác gáy như đánh thức giấc mộng yêu đương. Sực tỉnh lại thì giờ phút chia tay sắp đến rồi, bao nỗi buồn thương luyến tiếc tràn ngập vào cả con tim của đôi trai gái:
– Cô gái:
Gặp nhau chưa thỏa tấc lòng
Trăng đã xế bóng buồn không hỡi chàng
Cuốc kêu quốc quốc đoạn trường
Nặng thương nặng nhớ hai hàng châu rơi
Bỏ chày buông cối chàng ơi!
Ngưu Lang Chức Nữ ven trời chân mây
Duyên may ta gặp dịp này
Tình chàng ý thiếp tràn đầy nghĩa nhơn
Xa chàng thiếp thệ sắt son
Biển sông dù cạn cũng không sờn tình ta
Sang canh giục giã tiếng gà
Sương khuya nhuộm thắm trăng tà non tây
Thương nhau chàng nhớ lời này
Tránh xa Ngô Khởi học nơi Bá Lý Hề
Chắp tay giữa trời đất thiếp thề
Thủy chung thiếp quyết không hề sang ngang.
– Chàng trai cũng xúc động bùi ngùi, ngân cao giọng hò bên cối gạo bằng lời lẽ thủy chung:
Ngãi nhân mới kết chữ đồng
Sông Tương kẻ cuối bến người đầu dòng bậu ơi!
Nhìn bậu nước mắt qua tuôn rơi
Lòng đầy trĩu nặng một trời nhớ thương
Biết nhau vừa tạc đá vàng
Vì đâu qua bậu hai đàng chia tay
Bậu thì lẻ bóng nơi đây
Phần qua về lại làng tây ven rừng
Bậu còn nặng nghĩa thủy chung
Thì mong bậu nhớ cái gương vợ Mãi Thần
Kìa như mặt ả Kim Liên
Chuyện xưa kẻ ấy ai còn khen chi
Lòng qua mãi mãi khắc ghi
Mong sao dạ bậu đừng thay đổi nào
Dời chân biết gởi gì nhau
Qua xin trao bậu túi trầu làm tin.
Nguyễn Man Nhiên